MỞ RỘNG > Tình huống LHS phần riêng - Chính quy tiết 345 phòng 101C2

Tình huống LHS phần riêng - Chính quy tiết 345 phòng 101C2

Tất cả các vụ án được giải quyết theo Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, 2025

TÌNH HUỐNG HÌNH SỰ PHẦN RIÊNG

(Nhóm 1 tiết 3,4,5 phòng 101/C2)

 

NHÓM 1

Vụ án 1:

            Lúc 19 giờ ngày 12/10/2005, Nguyễn Văn Hạnh cùng một số bạn là Nguyễn Hoa, Lê Bình đang uống bia tại nhà hàng Bồng Lai thi Trần Thông đi vào. Hạnh nhìn Thông nhưng không chào hỏi gì và cũng không mời uống bia. Cho là Hạnh khinh thường mình nên Thông tìm cách gây sự với Hạnh. Thông bảo: “Mày nhìn gì mậy?” và xông vào một tay ôm Hạnh, một tay túm tóc Hạnh ra phía sau, lên gối vào lưng Hạnh hai cái. Hạnh giẫy nhưng Thông không buông ra mà vẫn tiếp tục kéo tóc và lên gối lia lịa. Ngay lúc đó, Hạnh quơ tay vớ được con dao Thái Lan dùng để gọt trái cây trên bàn, dùng tay phải chọt ra sau hai cái. Khi bị đâm hai cái, Thông buông Hạnh ra.

            Sau khi đâm Thông, thấy Thông bị chảy máu nhiều nên cùng các bạn đưa đi bệnh viện huyện cấp cứu. Thấy vượt quá khả năng, bác sĩ trực ca là Nguyễn Thị Lan đã sơ cứu và chuyển Thông lên bệnh viện tỉnh. Tại bệnh viện tỉnh, Thông được giải phẩu ngay nhưng do vết thương làm vỡ gan, đứt ruột non nên Thông đã chết vào 24 giờ cùng ngày. Nguyễn Văn Hạnh sau khi biết tin Thông chết đã đến công an huyện khai báo sự việc.

            Vụ này anh (chị) tính sao?

Vụ án 2:

Ngày 15/10/2005, Bùi Đăng Khoa mượn xe máy của em gái là Bùi Bích Phượng đến một nhà không quen biết để đánh bạc. Tuy nhiên, do không có tiền đánh bạc nên Khoa đến tiệm cầm đồ cầm chiếc xe máy của em mình cho anh Nguyễn Tiến Ba lấy 4.200.000 đồng vào đánh bạc và thua sạch.

Do không có tiền chuộc xe đem về cho em gái nên Khoa nảy ra ý định dùng dao đe dọa bà Bách để lấy tiền chuộc xe. Khoa hỏi mượn xe của Trần Văn Ba nói là về nhà lấy tiền. Ba đồng ý cho Khoa mượn xe. Sau đó, Khoa tháo biển số xe để vào giỏ xe và chạy xe đến nhà bà Bách. Khoa vào nhà ngồi nói chuyện với bà Bách. Đến khi bà Bách không muốn nói chuyện với Khoa nữa nên đứng dậy đi vào trong. Khoa đứng lên đi theo, cho tay vào túi quần và bấm mũi dao bật ra. Thấy Khoa đi theo, bà Bách hỏi: “Mày vào đây làm gì?” Khoa nói: “Bác cho cháu vay 4 triệu”. Bà Bách trả lời: “Không có đâu, về đi”. Thấy vậy, Khoa rút dao ra và đe dọa: “Bà không cho tôi vay tiền tôi sẽ giết bà”. Bà Bách nói: “Mày có giỏi thì giết tao rồi cướp nhà tao đi”. Vừa nói, bà Bách vừa đi vào phòng ngủ. Khoa liền cầm dao bằng tay phải đâm liên tục 4 nhát vào người bà Bách, 12 nhát vào ngực và bả vai, 2 nhát vào mặt bà Bách. Bà Bách chỉ còn kịp gọi: “Thắng ơi” rồi gục xuống. Biết Thắng (con bà Bách) có ở nhà nên Khoa cầm dao đi tìm Thắng. Thấy Thắng đang nằm ngủ trên giường, Khoa đã dùng chai bia đập mạnh vào đầu Thắng làm vỏ chai bia vỡ tan. Thắng tỉnh dậy, Khoa dùng vỏ chai bia khác lao vào đánh Thắng. Thắng ôm được Khoa và vật Khoa ngã xuống nền nhà, giằng co dao từ tay Khoa và đâm Khoa liên tục 4 nhát vào tay, sườn, bụng Khoa làm Khoa bị thương. Sau đó, Thắng chạy sang phòng bà Bách, thấy bà Bách nằm trên vũng máu. Thắng gọi mọi người đến cứu nhưng bà Bách đã chết. Khoa bị bắt sau đó.

Giám định pháo y kết luận: nạn nhân chết là do mất máu cấp, đồng thời suy hô hấp cấp do vết thương xuyên thấu thành ngực trước và sau”. Tỷ lệ thương tật của Khoa là 30%.

Anh (chị) hãy xác định Khoa phạm tội gì? Khoản nào?

NHÓM 2

Vụ án 1:

Vào lúc 11 giờ ngày 8 – 4 - 2007, Mai Quang Vinh (SN 1982, quê Tiền Giang, tạm trú P.5, Q.Tân Bình) đến nhà chị Vũ Thị Bích Thuận (SN 1975, ngụ P.5, Q.10) chơi điện tử. Đến 11 giờ 30 cùng ngày, chị Thuận nhận được điện thoại của người thân ở nước ngoài gọi về nên mang điện thoại sang nhà kế bên cho chồng cùng nghe. Đang đứng nói chuyện, chị Thuận thấy Vinh chạy chiếc Kawasaki Max BS: 52F7 - 5386 của mình qua mặt liền kêu: “Vinh lấy xe chị đi đâu thế?”. Vinh không đáp lại chỉ quay đầu cười rồi biến luôn. Chị Thuận ngỡ ngàng nhìn theo chiếc xe trị giá 16 triệu đang dần mất hút trong dòng người qua lại. Sau một thời gian lẩn trốn, tháng 9 - 2007 Vinh bị công an Q. Tân Bình bắt xử lý.

Vụ này quá căng thẳng, tính sao?

Vụ án 2:

Đoàn Văn Thành là công nhân làm việc tại Cty IK Vina thuộc khu chế xuất Tân An (Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài). Do biết được sự sơ hở trong việc quản lý sản phẩm của Cty, Thành bàn với Nguyễn Văn Vinh, Tạ Minh Giang lấy sản phẩm của Cty đem ra ngoài để Vinh, Giang mang đi tiêu thụ lấy tiền tiêu xài và được cả bọn đồng ý.

            Khoảng 11 giờ ngày 21/8/2004, lợi dụng lúc công nhân của Cty đang đi ăn cơm, Thành lẽn vào bộ phận mài 3 của Cty lấy một số sản phẩm là muỗng Inox rồi bỏ lên xe đẩy đến một kho hàng đang bỏ trống của Cty. Thành đã lấy sẵn hai chiếc bao tải nhỏ rồi đổ hết số muỗng đó vào trong hai bao tải này, sao đó quăng qua cửa kính đưa ra ngoài chỗ Vinh và Giang đang chờ sẵn. Giang, Vinh mỗi người vác một bao. Khi Giang và Vinh đi đến cổng sau khu chế xuất thì bị hai anh bảo vệ là Xuân và Yên phát hiện đuổi bắt. Do bị áp sát, Giang, Vinh quay lại chống trả. Giang để bao tải xuống đất quay lại đánh tới tấp vào anh Yên khiến anh Yên mất đà ngã xuống đất, sau đó Giang vác bao tải bỏ chạy. Thấy không thể chống đỡ được anh Xuân, Vinh bỏ lại bao tải chạy ra ngoài đường. Nghe tiếng hô của hai bảo vệ, các công nhân đã tập trung lại tóm hai thằng.

            Anh (chị) hãy định tội cho các bị can trong vụ án.

NHÓM 3

Vụ án 1:             

Tháng 5/2005, Nguyễn Quốc Dũng từ Quãng Ngãi vào Ninh Thuận là nghề thợ may. Tháng 11/2005, Dũng thuê nhà ở của Nguyễn Thị Hương để mở hiệu may. Tháng 2/2006, Dũng bắt đầu góp tiền ăn cơm chung với gia đình nhà chị Hương. Từ đó, tình yêu Dũng và Hương bắt đầu nảy nở, hai người đã nhiều lần lén lút quan hệ tình dục với nhau tại nhà Hương. Hai người chưa muốn dừng lại ở đó mà muốn tiến đến thành vợ chồng công khai nhưng ngặt một nỗi là anh Được (chồng Hương) và bé Thi (con Hương) đang tồn tại. Hai người bàn nhau trốn đi Sài Gòn là chắc ăn. Tuy nhiên, không có tiền làm sao đi. Cuối cùng họ cũng đã tìm ra kế.

            Hương rủ người chơi hụi dự định hốt sớm để cùng người tình trăm năm trốn vào Sài Gòn. Và Hương đã hốt được 2.900.000 đồng, trừ chi phí còn 2.300.000 đồng. Hương đưa cho Dũng mua 4,5 chỉ vàng. Song song đó, Hương còn lén lấy giấy tờ nhà đem cầm cho chủ tiệm vàng Ngọc Huy để lấy tiền nhưng anh Huy không đồng ý. Vì vậy, cặp tình nhân Dũng – Hương chưa thực hiện kế hoạch được.

            Hai người dự kiến hốt một suất ở dây hụi khác vào ngày 20/7/2006 nữa là “biến”. Nhưng thấy vẫn còn quá ít tiền nên Hương bàn với anh Được bán bớt đất. Anh Được không nghi ngờ gì nên đồng ý bán 1 miếng đất giá 23 chỉ vàng, nhưng người mua đưa trước 13 chỉ. Nhận vàng xong, anh Được đưa Hương cất giữ. Thông tin này đã được thông báo cho Dũng. Khoảng 21 giờ cùng ngày, sau khi đi uống rượu về, Dũng ra hiệu hẹn 22 giờ Hương ra tiệm may tính chuyện. Đúng 22 giờ, Hương ra tiệm may và đúng như mọi lần, hai người quan hệ tình dục trước đã. Lúc cỡi quần Hương, Dũng biết Hương có đem theo vàng bán đất hôm nay nhưng Hương chưa nói đưa cho Dũng cất số vàng này, Dũng cũng không cần hỏi. Trong lúc quan hệ tình dục, Hương bàn với Dũng là khi trốn thì đem theo con gái là Thi. Dũng không đồng ý. Hai người cãi nhau. Dũng bực tức đứng dậy, không mặc quần. Thấy Hương vẫn còn nằm đó, chỉ mặc quần lót, Dũng ôm Hương ném ra cửa và đóng cửa lại. Hương xô cửa mấy lần không được nhưng không dám làm ầm lên, cũng không dám ở lâu nên bỏ đi về nhà, lén kiếm đồ mặc vào và đi ngủ với anh Được như không có gì.

            Sau khi biết chắc là Hương đã về, Dũng quay vào lấy quần của Hương thấy có 13 chỉ vàng, trong áo khoác có 600 ngàn đồng.

            Sáng hôm sau, Dũng dọn đồ mang theo các tài sản vừa thu được, đón xe về Quãng Ngãi sớm. Khi ra tiệm, Hương mới biết người tình trăm năm của mình đã phụ bạc mình rồi liền đi báo công an. Anh Được chẳng yêu cầu gì mà chỉ viết đơn xin ly hôn với Hương.

            Anh (chị) thấy có cần xử hình sự ai trong vụ này không?

Vụ án 2:

Dương Đình Khanh, 46 tuổi, trú tại tổ 12, Thủy Công 2, phường Tân Thịnh, thị xã Hòa Bình. Vốn sinh ra ở Hà Tây, nhưng Khanh lên Hòa Bình làm công nhân từ khi nhà máy bắt đầu xây dựng. Ở công trường này, anh ta đã gặp và yêu chị Dương Thị Cánh cũng là công nhân của nhà máy.

Cuộc sống của gia đình họ sẽ chẳng có gì đáng nói nếu như sau khi nghỉ chế độ ở Nhà máy Thủy điện Hòa Bình, vợ chồng Khanh quay sang kiếm sống bằng nghề kinh doanh và giết mổ lợn. Sau khi giết mổ, Khanh lại mua một cút rượu về uống với lòng lợn tiết canh, món khoái khẩu của anh ta.

Mỗi lần như thế, Khanh lại lớn tiếng chửi tất cả mọi người. Chửi vợ con chán, Khanh chửi cả hàng xóm. Sống với một người chồng vũ phu và nát rượu, người phải chịu đau khổ nhiều nhất chính là chị Cánh. Chị thường xuyên bị chồng đánh đập và chửi bới. Khi được tin mẹ mất, chị Cánh chuẩn bị đồ đạc, quần áo về quê thì bị Khanh cản đường. Khanh nói: “Mày phải bán hết số hàng ở ngoài chợ rồi mới được về”, đồng thời anh ta còn tát tai, đá đít khiến chị phải sang nhờ hàng xóm lấy hộ quần áo rồi bắt xe về quê.

Khi vợ đi đám tang mẹ trở về nhà, Khanh không biết tìm cớ gì để đánh vợ nên ngấm ngầm dùng ớt để xát vào trang phục lót của vợ (mà là ớt vàng cho vợ khỏi phát hiện ra), khiến chị vợ mặc vào bị cay nhảy lên la oai oái. Chị vợ vẫn tưởng mình bị dị ứng hay bị côn trùng cắn, mãi sau khi thấy Khanh đứng nhìn mình cười, chị Cánh mới biết đó là hành động của “đức lang quân” mình.

Ngoài ra, Khanh còn vô cớ nghi vợ ngoại tình nhưng không có bằng chứng. Tức tối, Khanh nghĩ làm thế nào để "chụp mũ" cho vợ. Vì vậy vào một hôm bà vợ vào rừng đi vệ sinh, chưa kịp kéo quần lên thì ông ta xông vào lột luôn quần vợ và chạy về làng hô hoán cả làng là vợ mình đi ngủ với trai trong rừng (?!). Khanh còn bắt vợ nhốt vào chuồng lợn, khảo tra suốt đêm để vợ khai ra nhân tình. Chịu không nổi, chị Cánh đã đập đầu vào cũi để tự tử, Khanh sợ bị liên lụy nên thả chị ra nhưng không cho mặc quần áo dài, chỉ cho mặc đồ lót để chị không thể đi ra ngoài gặp nhân tình. Không thể chịu đựng được nữa, chị Cánh vào nhà trong cầm một con dao phay đi ra. Khi thấy Khanh đang đứng cầm chai rượu, nhịp nhịp chân trước cửa đón không cho chị Cánh ra ngoài, chị Cánh đã chém một nhát ngang đùi Khanh làm đứt một bên đùi và trúng của quý của Khanh. Khanh ôm của quý nằm quằng quạy, la ơi ới. Khi đó, chị Cánh đã mặc đồ và gọi xe lôi chở Khanh đi bệnh viện.

Kết quả giám định cho thấy: Khanh bị thương bên đùi trái và đứt 1/3 dương vật. Tổng tỷ lệ thương tật là 54%.

Theo anh (chị) hành vi của những người có liên quan trong vụ án có cấu thành tội phạm không? Phân tích.

NHÓM 4

Vụ án 1:

Tại Cty TNHH Xí Muội có chức năng kinh doanh hàng nông sản, Ngô Quốc Việt là Giám đốc, Lưu Linh là phó Giám đốc, Lê Hồng Hiệu là Kế toán trưởng.

Việt cùng Linh đi các tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận, Hải Dương…tìm gặp tư thương đặt mua hàng nông sản, hải sản theo giá cả thị trường và thoả thuận bên tư thương chịu tất cả chi phí mua hàng, gia công chế biến hàng thành phẩm đến TPHCM hoặc Bình Dương (nơi mà Việt và Linh đã ký hợp đồng từ trước) giao cho doanh nghiệp mua hàng. Như vậy, xảy ra hình thức tay ba: bên tư thương ở các tỉnh – doanh nghiệp của Việt, Linh – doanh nghiệp ở TPHCM hoặc Bình Dương.

Sau khi Việt, Linh nhận hàng xong thì fax về trụ sở công ty Xí Muội cho Hiệu biết loại hàng, giá cả mua, giá bán, số lượng hàng, danh sách người bán hàng…Trên cơ sở đó, Hiệu viết hoá đơn VAT xuất bán hàng rồi gửi qua đường bưu điện cho Việt hoặc Linh để giao cho doanh nghiệp mua hàng. Việt, Linh nhận tiền hàng rồi trả tiền mặt cho tư thương. Hiệu căn cứ theo số liệu Việt, Linh cung cấp cùng các kế toán lập bảng kê 04 (theo quy định của Tổng cục thống kê) giả mua hàng nông, hải sản của người trực tiếp sản xuất rồi xây dựng hồ sơ giả gia công chế biến, nhập kho, xuất kho, thu chi tiền gia công…

Từng đợt hai, ba tháng, Linh về công ty ký vào các bảng kê, ký giả chữ ký của người nhận tiền gia công. Việt sử dụng hồ sơ giả này báo cáo quyết toán khấu từ thuế VAT đầu vào với Cục thuế tỉnh và đã được Cục thuế cho khấu trừ từ năm 1999-2000 như sau:

+ Năm 1999: lập 514 bảng kê mua hàng chưa qua chế biến với doanh số mua là 76 tỷ đồng, được khấu trừ 3 tỷ đồng;

+ Năm 2000: lập 1120 bảng kê, doanh số mua 174 tỷ, được khấu trừ 8 tỷ đồng;

+ Năm 2001: lập 273 bảng kê, doanh số mua 4o tỷ, được khấu trừ 808 triệu đồng.

Năm 1999, Việt còn lập giả chứng từ chi phí gia công chế biến để tổng kết hoạt động trong năm bị lỗ rồi làm đơn xin giảm thuế VAT. Cục thuế tỉnh đã quyết định giảm thuế 850 triệu đồng. Thực tế, Việt mua hàng rồi bán luôn cho các doanh nghiệp, không có hoạt động, chi phí sản xuất chế biến nên không có bị lỗ, vì vậy không thuộc diện giảm thuế.

Với hành vi trên của các bị cáo, anh (chị) hãy định tội và phân tích.

Vụ án 2:

Đầu năm 2001[1], Trần Thế Hùng (nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty thương nghiệp Thành Phát, ấp 2, xã Trung An, TP. Mỹ Tho, Tiền Giang), Nguôn Hiên (Giám đốc Công ty ABS – Campuchia) và Phạm Quang Mậu (nguyên Chi cục trưởng Chi tục Hải quan cửa khẩu Vĩnh Xương – An Giang) cùng gặp nhau và bàn bạc với Nguyễn Văn Dũi (nguyên Đồn trưởng Đồn biên phòng cửa khẩu sông Tiền - Bộ đội biên phòng tỉnh An Giang) về việc làm hồ sơ tạm nhập, tái xuất khống xăng dầu tiêu thụ tại Việt Nam để lấy tiền chia nhau tiêu xài. Theo kế hoạch, Hùng lo việc vận chuyển; Mậu lo giấy tờ hải quan; Dũi đảm bảo hồ sơ khống việc xuất nhập cảnh của các tàu chở xăng, dầu (như: danh sách thuyền viên). Ai biết việc người đó. Cứ mỗi bộ hồ sơ xuất nhập khống như vậy, Dũi được chia 100 triệu đồng.

Trong thời gian từ tháng 6/2001 – 4/2004, Dũi đã hợp thức cho Hùng 21 bộ hồ sơ xuẩt tàu xăng dầu sang Campuchia và Dũi đã nhận của Hùng là 1,7 tỷ đồng (trong đó có 650 triệu tiền mặt, số còn lại là hiện vật gồm đồng hồ và nữ trang).

Đến cuối năm 2004, Nguyễn Hữu Dũng (nguyên giám đốc Công ty Tây Nam – Quân khu 7) chủ động gặp Hùng bàn bạc việc làm khống hồ sơ tạm nhập, tái xuất xưng dầu bằng đường thủy sang Canpuchia để kiếm lời. Cụ thể như sau: Công ty SAVIMEX – Campuchia làm thủ tục mua nhận xăng, dầu và quyết toán với Công ty xuất nhập khẩu vận tải đường biển theo đúng quy định của pháp luật, nhưng thực chất không vận chuyển xăng dầu về Campuchia mà giao cho Hùng tổ chức tiêu thụ tại Việt Nam. Trong đó, Dũng chịu trách nhiệm tiêu thụ toàn bộ số xăng dầu mà Hùng để lại; Mậu xác nhận khống hồ sơ hải quan tái xuất xăng dầu sang Campuchia; Dũi xác nhận khống thủ tục xuất nhập cảnh vào danh sách thuyền viên và phương tiện qua cửa khẩu. Như vậy, thông qua Hùng, Dũi lại làm khống 24 bộ hồ sơ xuất nhập cảnh cho các tàu chở xăng, dầu gọi là “tại nhập, tái xuất”. Lần này, Dũi được chia 2,4 tỷ đồng (trong đó 2,19 tỷ tiền mặt, số còn lại là hiện vật).

Qua hai lần, với 45 bộ hồ sơ khống, Dũi đã làm thủ tục khống số xăng, dầu chở sang Campuchia trị giá 4,677 triệu USD (gần 66,997 tỷ đồng) và thu lợi bất chính 4,1 tỷ đồng.

Anh (chị) hãy định tội cho những người có liên quan và phân tích.

 

[1] 1998.

NHÓM 5

Vụ án 1:

Gần đây, người dân đã phản ánh tình trạng ngang nhiên phá rừng tự nhiên để làm đường dẫn vào khu khai thác khoáng sản trái phép tại địa bàn thôn 3 (xã Trà Ka, huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam) giáp ranh với xã Trà Xinh (huyện Tây Trà, Quảng Ngãi). Sau khi nhiều cơ quan báo chí phản ảnh, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam - ông Lê Phước Thanh - đã có công văn chỉ đạo Hạt kiểm lâm Bắc Trà My phối hợp với các cơ quan chức năng và chính quyền địa phương xã Trà Ka tiến hành kiểm tra thực tế. Kết quả kiểm tra đã phát hiện tổng diện tích rừng thiệt hại là 6.500 m2; khối lượng gỗ thiệt hại gần 10,5 m3.

Rừng Trà Ka với nhiều loại gỗ quý như chò, lim, sến… đã bị cày xới để mở tuyến đường dài hơn 5 km, rộng 3m để dẫn đến khu vực khai thác vàng ở thượng nguồn sông Lon; trong số đó có những cây cổ thụ có đường kính xấp xỉ 1m.

Theo điều tra ban đầu, toàn bộ việc san ủi đường để khai thác khoáng sản tại khu vực chỉ do Công ty TNHH Hoàng Thịnh (địa chỉ xã Trà Khê, Tây Trà, Quảng Ngãi) thực hiện. Hạt kiểm lâm Bắc Trà My đã chuyển hồ sơ vụ án cho Công an huyện Bắc Trà My tiếp tục điều tra vụ việc theo quy định. Qua điều tra, Công ty TNHH Hoàng Thịnh do ông Hoàng Thịnh làm giám đốc. Để đường dẫn vào khu khai vàng, Thịnh đã thuê 3 xe cuốc vô đào đường và triệt hạ số gỗ trên.

Quá căng thẳng, tính sao?

Vụ án 2:

Kết quả điều tra ban đầu xác định, vào khoảng 7 giờ 30 ngày 21/4/2006, ông Nguyễn Tấn Tài, Thượng tá, Phó trưởng phòng cảnh sát bảo vệ - hỗ trợ tư pháp (PC 22) Công an TP.HCM đi trên xe U-oát biển số 51A – 0599 của Phòng Hậu cần, Công an TP.HCM do ông Nguyễn Tấn Lộc (lái xe Phòng Hậu cần Công an TP.HCM) điều khiển. Lộc chở ông Tài chạy đến nhà ông Nguyễn Văn Dần, thiếu tá, cán bộ Trường nghiệp vụ Công an TP.HCM (ở đường Hoàng Diệu 2, phường Linh Trung, quận Thủ Đức) rủ nhau đến khu rừng Mã Đà (thuộc Khu Bảo tồn thiên nhiên và di tích Vĩnh Cửu, huyện Vĩnh Cửu, Đồng Nai, để đi săn thú rừng.

Trước khi lên đường, ông Tài lấy 3 khẩu súng (gửi ở nhà ông Dần cách nay 1 năm) gồm 1 khẩu súng Klip và 2 súng thể thao quốc phòng mang theo. Khi đến phân trường 2 của khu bảo tồn huyện Vĩnh Cửu vào tối cùng ngày, ông Tài và ông Dần đi vào rừng tiến hành săn bắn.

Đến 2 giờ sáng ngày 22/4, ông Tài và ông Dần bắn được 8 con chồn đem về gửi ở nhà ông Mười (là người dân địa phương). Đến trưa ngày 22/ 4, ông Tài và ông Dần tiếp tục vào phân trường 3 và tại đây đã bắn hạ được 4 con chồn và 4 con cheo. Đến tối cùng ngày, những người đi săn này đã nghỉ lại qua đêm tại trụ sở bảo vệ rừng của phân trường 3.

Sáng ngày 23/4, cả nhóm lại đi vào phân trường 1 Khu Bảo tồn thiên nhiên và di tích Vĩnh Cửu để săn... Tổng cộng số thú rừng bị nhóm ông Tài và Dần bắn hạ có 8 loài nặng 24,5kg. Cùng ngày, nhóm đi săn mới chuyển số thịt thú rừng lên xe để trở về TP.HCM.

Theo xác định của Chi cục Kiểm lâm Đồng Nai, 8 loài thú mà nhóm ông Tài – Dần bắn được gồm: 5 con cheo (tên khoa học là Tagulus, nặng 0,4kg, thuộc nhóm IIB); 1 con cầy giông (tên khoa học là Viverra zibetha, nặng 0,2kg, nhóm IIB0); 1 con chồn vàng (tên khoa học là Mastes fluvigula, nặng 0,2 kg, nhóm động vật hoang dã thông thường); 7 con cầy vòi mốc (tên khoa học là Pagumu larvata, nặng 12kg, nhóm động vật hoang dã thông thường); 1 con sóc đỏ (tên khoa học là Sriurus spendens, nặng 0,5kg, nhóm động vật hoang dã thông thường); 1 con đại bàng đen (tên khoa học là Aqula clanga, nặng 1 kg, nhóm động vật hoang dã thông thường); 1 con rùa đất (tên khoa học là Heosemysgrandis, nặng 2,5 kg, nhóm IIB); 3 con gà rừng (tên khoa học là Gallus gallus, nặng 0,5 kg, nhóm động vật hoang dã thông thường).

Trên đường về, ông Dần ngồi phía trước giữ 1 khẩu súng thể thao quốc phòng có ống ngắm, hộp tiếp đạn lắp sẵn 5 viên, còn ông Tài ngồi băng ghế sau. Khẩu súng được ông Dần dựng vào lưng ghế, nòng súng chếch về phía sau. Khi đi đến đoạn km 3, đường 767 thuộc ấp Sông Mây, xã Bắc Sơn, huyện Trảng Bom, do xe bị xóc nên khẩu súng từ ghế rơi xuống; ông Dần vội chụp lấy thì súng nổ, gây thương tích cho ông Tài.

Ông Tài chết tại bệnh viện 115 TP. HCM, sau khi được ông Dần đưa cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa khu vực huyện Thống Nhất rồi chuyển về Bệnh viện 115 TP.HCM. Tiến hành xét nghiệm tử thi, cơ quan điều tra xác định, ông Tài chết do dập não, chảy máu não vì bị đạn súng bắn xuyên qua xoang bướm vào não.

            Anh (chị) hãy định tội cho những người có liên quan trong vụ án.

NHÓM 6

Vụ án 1:

Vào 10 giờ 30 ngày 29/8/2003, Công an huyện C bắt quả tang Nguyễn  Đức Thành đang có hành vi bán 1 gói heroin cho Hoàng Đình Chiến với giá 40 ngàn đồng tại nhà của Thành (số 39 đường K, phường C quận H), thu giữ trong người thành thêm 2 gói bột trắng và 78 ngàn đồng. Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Thành, công an thu được 7 gói bột trắng và 500 ngàn đồng, 1 máy điện thoại di động Motorola.

            Theo kết quả giám định của Phòng kỹ thuật hình sự thành phố H:

+ 2 gói bột trắng thu trong người Thành là heroin, nặng 0,1333 gram;

            + 7 gói bột trắng thu được tại nhà Thành cũng là heroin, nặng 0,4028 gram.

Nguyễn Đức Thành khai đã nghiện heroin từ hai năm nay, thường xuyên mua heroin về nhà để hút. Thỉnh thoảng, những con nghiện khác đến thì Thành “chia” lại để họ dùng, với giá 40 ngàn/gói.

            Hoàng Đình Chiến khai: “Tôi đã nghiện ma túy từ hơn 1 năm và thường xuyên mua heroin của một người tên Hùng, ngõ H (không rõ lai lịch). Tuy nhiên, hôm nay Hùng đi đâu mất nên tôi được giới thiệu sang mua của Thành. Ngày 29/8 là ngày đầu tiên tôi mua thuốc của Thành”         .

            Anh (chị) hãy định tội và xác định khung hình phạt đối với những người có liên quan trong vụ án.

Vụ án 2:

Mai Văn Thụy là đối tượng nghiện hút, không có nơi cư trú rõ ràng. Để có tiền thỏa mãn cơn nghiện, Thụy đã nhiều lần mua heroin về nhà chia thành từng tép nhỏ hơn, bán lai cho các con nghiện khác để kiếm “chút đỉnh” (lời của Thụy).

            Khoảng 14 giờ ngày 12/9/2005, Dương Đức Hồng (SN:1963) trú tài phường C, thị xã N, tỉnh H đạp xích lô ở gần ngã ba chợ thì gặp Thụy đang đi bộ. Hồng hỏi: “Có không, chia một tép coi ní?” Thụy nói: “Đưa tiền đây, 25.000 đồng”. Hồng nói: “Sáng giờ chỉ kiếm được 20 ngàn, thiếu 5 ngàn đi!”. Thụy đồng ý và lấy tép heroin từ trong túi đưa cho Hồng.

            Khoảng 19 giờ ngày 13/9/2003, Hồng lại đạp xe từ nhà ra khu vực chợ đón khách thì thấy Thụy đang đứng gần bưu điện, Hồng đạp xe đến hỏi: “Còn không, cho 1 tép 20 ngàn đi”. Biết tay này ăn quen, chỉ mua 1 tép 20 ngàn nhưng thấy Hồng là tay đạp xích lô, chắc cũng không có nhiều tiền nên Thụy đồng ý bán và lấy ra 1 tép heroin đưa cho Hồng.

            Trưa ngày 14/9/2003, Thụy nhờ Hồng chở đến thành phố X, tỉnh H nhưng không cho Hồng biết đi làm gì. Đến nơi, Thụy vào trong chợ gặp một chị phụ nữ tên Lê Thùy Dung, bán rau. Thụy đưa cho Dung 80 ngàn đồng, chị Dung đưa cho Thụy một viên heroin bằng hạt đậu xanh. Sau đó, Thụy qua gọi Hồng cùng đi vào gầm cầu thang của 1 khu chung cư 5 tầng. Thụy lấy trong túi ra 1 tép heroin và 2 chiếc xilanh và 1 ống nước cất. Thụy pha heroin vào 2 ống xilanh rồi đưa 1 xilanh cho Hồng. Cả 2 cùng tự chích vào cơ thế mình, phê. Sau khi chích xong, cả hai lên xe xích lô đi về Ninh Bình. Trên đường về, Thụy đòi tiền vừa chích heroin cho Hồng. Hồng nói: “Tao chở mày đi cả buổi, trừ mày!”. Thụy đồng ý.

            Theo anh (chị), có ai phạm tội trong trường hợp này không?

NHÓM 7

Vụ án 1:

            Lê Văn Phượng là chủ xe khách Deawoo loại 54 chỗ ngồi, biển kiểm soát 77H-4327. Lê Văn Phượng thuê Phạm Ngọc Thành lái (Thành có giấy phép lái xe hợp lệ).

            Ngày 24/2/2003[1], Thành chở khách từ Bình Định vào TPHCM, trên xe có 60 người (trong đó có cả vợ chồng chủ xe Phượng cùng đi). Do chạy quá tốc độ và quá trọng tải, cảnh sát giao thông tỉnh Phú Yên đã tạm giữ giấy phép lái xe của Thành hồi 16 giờ cùng ngày và hẹn đến ngày 27/4 (sau đó 3 ngày) đến để xử lý. Vì khách còn đang đầy trên xe nên Phượng bảo Thành lái xe tiếp vào TPHCM trả khách.

            Ngày 26/2, xe của Thành quay ra Bình Định. Vào 16h15, khi xe đi ngang đoạn đường thuộc phường Bùi Thị Xuân, Quy Nhơn, Bình Định (QL 1A) thì gây tai nạn làm chết hai em học sinh đang đi xe đạp bên lề phải cùng chiều. Trong vụ tai nạn này, lỗi thuộc về 2 em học sinh khi qua đường không quan sát. Thành không có lỗi trong vụ tai nạn.

            Theo anh (chị), có ai phạm tội trong vụ án này? Phân tích.

Vụ án 2:

Nguyễn Thi Thanh Phương (SN: 7/6/1989) là cháu gọi anh Nguyễn Cao Thượng (công tác tại ban chỉ huy quân sự huyện M, tỉnh Q) bằng chú ruột. Tháng 7/2004, Phương được gia đình đưa vào ở với gia đình anh Thượng để đi học lớp 10 tại trường PTTH Bình Long.

            Theo kế hoạch, Ban chỉ huy quân sự huyện M triệu tập dân quân tự vệ, trong đó có Phan Minh Luân (SN: 13/2/1985) về tập trung huấn luyện quân sự từ 15/2/2005-30/3/2005.

            Ngày 20/2/2005, tại quán cà phê Ngọc Dung (ngã ba X, thị trấn B, huyện M), Luân và Phương quên nhau và sau đó đã vài lần cùng đi chơi với nhau. Khoảng 22 giờ ngày 25/2/2005, tại quán cà phê Ngọc Dung, Luân đã tỏ tình với Phương và được Phương chấp nhận. Do quán cà phê có bố trí các “tum” tương đối kín đáo, Luân đã ôm Phương, hôn lên môi và âu yếm khắp người Phương. Được một lúc, Luân nói: “Anh cỡi đồ em ra nhé!”. Lúc đầu Phương không đồng ý, nhưng sau một hồi thuyết phục, Phương đã cho Luân cỡi hết quần áo của mình và để cho Luân giao cấu mình. Từ tháng 2/2005 – 3/2005, Luân đã đi chơi với Phương rất nhiều lần (trung bình 1 tuần 3 lần), mỗi lần đi chơi Luân giao cấu với Phương từ 2-3 lần, được Phương đồng ý, tại những nơi khác nhau, như: quán cà phê Ngọc Dung, nhà nghỉ Thành Thông, nhà ở của Luân…

Ngày 22/3/2005, Phương thấy đau bụng và mệt mỏi nên anh Nguyễn Cao Thượng đã đưa Phương đi kiểm tra sức khỏe thì phát hiện Phương đã có thai khoảng 3 tuần tuổi. Ngày 25/3/2005, Luân đã đưa Phương đi đến nhờ anh Nguyễn Khắc Toại cùng đưa Phương đến thị xã T, tỉnh D để phá thai. Tại đây, Phương được Đào Ngọc Dũng, hành nghề phá thai không có giấy phép, tiếp đón và đưa vào trong. Sau khi kiểm tra, Dũng đã tiến hành phá thai cho Phương.

Sau khi phá thai được 1 tuần, Luân lại rủ Phương đi chơi và tiếp tục giao cấu với Phương tại các địa điểm cũ. Đến tháng 9/2005, không thấy mình có thai lần nữa mà cũng không bị “kẹt”, Phương đã dò hỏi và nghi ngờ mình mất khả năng sinh con nên đi kiểm tra ở bệnh viện phụ sản. Kết quả cho thấy Phương đã mất khả năng sinh con vì Phương không còn buồng trứng (lần phá thai trước đã kéo nguyên buồng trứng của Phương ra ngoài). Anh Nguyễn Cao Thượng quá bức xúc đi tố cáo cả  Luân và Phương với công an và đưa Phương về quê trả cho gia đình.

Anh (chị) tính sao vụ này?

NHÓM 8

Vụ án 1:   

Tòa án nhân dân huyện D kết án Dương Văn E về tội trộm cắp tài sản và buộc E phải bồi thường cho anh Huỳnh Văn K 3.500.000 đồng. Sau khi xét xử sơ thẩm, Dương Văn E kháng cáo xin tòa án giảm nhẹ hình phạt và giảm mức bồi thường, Tòa án nhân dân tỉnh V chưa xét xử phúc thẩm vụ án trên.

Vì muốn thi hành ngay khoảng tiền bồi thường trên cho anh họ của mình nên Nguyễn Quốc T là Chấp hành viên của cơ quan thi hành án huyện D đã đến nhà của E, lấy danh nghĩa là Chấp hành viên yêu cầu E phải nộp số tiền 3.500.000 đồng. Dương Văn E không đồng ý vì cho rằng mình đang kháng cáo bản án sơ thẩm nên không thể bị thi hành án được. Hai bên đã có lời qua tiếng lại và dẫn đến xô xát, E đã đẩy T ra khỏi nhà nên T hậm hực bỏ ra về đi kêu công an.

Công an tính sao mới phải?

Vụ án 2:

Công ty sản xuất kinh doanh tổng hợp Ngọc Hồi thuộc Bộ Tư lệnh binh chủng đặc công được thành lập ngày 236/8/1993 do thiếu tá Nguyễn Tiến Long làm Giám đốc. Ngày 9/4/1994, Cty được giao vốn. Do vốn cấp không đủ nên để đảm bảo hoạt động kinh doanh, Ban Giám đốc Cty đã ra Quy chế hoạt động kinh doanh với nội dung: Trong trường hợp vốn không đủ, Cty có thể huy động vốn bên ngoài trả lãi theo thoả thuận, số tiền vay ngoài sẽ được theo dõi ở sổ nội bộ Phòng kinh doanh; các cá nhân của Phòng kinh doanh tự đi khai thác việc làm theo chức năng của Cty, khi tìm được nguồn hàng, các cá nhân phải lập phương án kinh doanh trình Trưởng Phòng kinh doanh, sau đó Trưởng Phòng kinh doanh trình Giám đốc phê duyệt. Trong trường hợp Trưởng Phòng kinh doanh đi vắng thì nhân viên trực tiếp đề nghị Giám đốc phê duyệt; nếu được phê duyệt thì có thể vay vốn của Cty hoặc tự huy động vốn của cá nhân; nếu vay vốn của Cty phải trả lãi theo quy định; các cá nhân phải tự chịu trách nhiệm về hậu quả kinh doanh và bảo toàn vốn theo dạng “lời ăn, lỗ chịu”; hàng năm, hàng quý phải nộp chỉ tiêu cho Phòng kinh doanh, Phòng kinh doanh giao nộp chỉ tiêu cho Cty, số tiền vốn Cty cấp cho hoạt động kinh doanh Phòng kinh doanh phải có trách nhiệm với Cty.

            Đầu tháng 7/1994, Phạm Công Hoàn (cán bộ Phòng kinh doanh) đã lập phương án kinh doanh sa nhân được Giám đốc Long duyệt và đề nghị Phòng Tài chính cấp 100% vốn (354.350.000 đồng) nhưng thực tế Hoàn chỉ nhận được 150.000.000 đồng vì Cty không có vốn. Hoàn đề nghị Cty cấp đủ vốn mới tiến hành kinh doanh. Tuy nhiên, do Cty không có vốn nên Hoàn đồng ý để Long vay cho mình 24.000 USD, lãi suất 5%/tháng.

            Ngày 14/7/1994, Hoàn ký nhận tiền từ Long. Sau đó, Long đã báo cho Lưu Thanh Trang (Trưởng Phòng kinh doanh) biết để ghi vào sổ nợ cùng với 150.000.000 đồng mà Hoàn đã nhận trước. Sau khi có tiền, Hoàn đã tiến hành kinh doanh sa nhân theo phương án kinh doanh đã được duyệt do bị biến động thị trường nên việc kinh doanh bị thua lỗ. Khi qua 2 tháng, Hoàn không hoàn được nợ cho Cty, tránh chịu lãi suất dài dài, Long đề nghị Tranh lên Phòng Tài chính ứng hai lần với số tiền 290.400.000 đồng để mua USD trả nợ cho Nguyễn Anh Hoàng (số nợ đã vay cho Hoàn). Sau khi Tranh nhận tiền đã viết phiếu chi lại cho Long.

            Tổng số tiền 440.400.000 đồng Hoàn không hoàn trả đúng hạn. Sau nhiều lần yêu cầu, Hoàn vẫn cứ khất nợ dài dài. Vì vậy, Long đã buộc phải tay mặt Ban Giám đốc viết đơn đề nghị cơ quan pháp luật giải quyết.

            Việc này anh (chị) tính thế nào?

NHÓM 9

Vụ án 1:

 

Quá trình điều tra xác định ngày 31-7-2011, tổ tuần tra kiểm soát do thiếu tá Lê Hồng Duân làm tổ trưởng, các tổ viên gồm trung úy Nguyễn Thanh Hải, đại úy Lê Việt Hùng, trung tá Lê Hữu Sơn được giao nhiệm vụ tuần lưu giải quyết ách tắc và cảnh báo tai nạn giao thông, không lập chốt tại một điểm để kiểm tra, thời gian tuần tra từ 15g-23g trên tuyến QL1A đoạn từ huyện Quảng Xương đến huyện Tĩnh Gia.

Vào khoảng 19g45, tổ trưởng Lê Hồng Duân chỉ đạo lái xe quay về nhà ông Nguyễn Văn Đôi (49 tuổi, trú tại Tĩnh Gia, Thanh Hóa) ở xã Tùng Lâm, huyện Tĩnh Gia ăn cơm và lập điểm kiểm tra, phân công Nguyễn Thanh Hải chặn xe hướng Nam - Bắc và hai cán bộ còn lại chặn xe hướng Bắc - Nam.

Khi lái xe Nguyễn Xuân Tình chạy hướng Nghệ An - Hà Nội đến địa điểm trên thì bị Lê Hồng Duân ra hiệu lệnh dừng xe kiểm tra. Khi thấy hiệu lệnh dừng xe, lái xe Nguyễn Xuân Tình dừng xe, cầm toàn bộ giấy tờ xe và hàng, bên trong kẹp 1 tờ 200.000 đồng đến đưa cho Lê Hồng Duân. Khi cầm giấy tờ, Duân hỏi anh Tình xe chở gì thì anh Tình trả lời chở gỗ mít. Duân yêu cầu lái xe đánh xe lên vị trí trên xe cảnh sát và nhờ Nguyễn Văn Đôi kiểm tra xem xe chở gỗ gì, rồi đưa toàn bộ giấy tờ cho Nguyễn Thanh Hải xử lý.

Khi Đôi kiểm tra xong nói cho Hải biết xe chở gỗ gụ nên Hải không đồng ý nhận 200.000 đồng mà đòi lái xe phải chi 5 triệu đồng và báo cáo với tổ trưởng. Khi thấy Hải đòi nhiều tiền, anh Tình đã gọi anh Hồ Tấn Phương, chủ xe, đến trình bày. Anh Phương xin bồi dưỡng 1 triệu đồng nhưng Hải không đồng ý và nói nếu không chấp nhận sẽ đưa xe về chi cục kiểm lâm để làm một vụ điển hình. Do sợ bị giữ xe lại nên anh Phương chấp nhận chi 5 triệu đồng.

Tuy nhiên do không đủ tiền nên anh Tình, anh Phương xin đặt lại giấy tờ xe, giấy phép lái xe cho Hải để hôm sau quay lại đưa tiền. Hải không đồng ý mà yêu cầu chủ xe, lái xe đặt giấy tờ vay tiền. Sau đó Nguyễn Văn Đôi nghe, biết chuyện đã cho vay 5 triệu đồng, lấy lãi 500.000 đồng/ngày và làm giấy vay nợ, cầm giấy tờ xe. Khoản 5 triệu đồng này Đôi đưa thẳng cho Lê Hồng Duân và nói “không biết lái xe làm việc với Hải thế nào, Hải bảo đưa 5 triệu cho anh”. Khoản tiền này, trên đường về trạm, Duân chia đều mỗi người 800.000 đồng. Còn lại 2,1 triệu đồng Duân khấu trừ số tiền đã chi cho tổ ăn uống trong tuần.

            Vụ này tính sao ta?

Vụ án 2:

Khoảng 18 giờ ngày 12/1/2004, vợ chồng anh Lê Đình An đến nhà Nguyễn Vinh để hỏi Vinh đã tháo nước xuống ruộng đã sạ của gia đình Anh. Hai bên cãi nhau, giằng co, xô đẩy nhau. Lúc này, Ngô Bốn (vợ Nguyễn Vinh) đứng trước sân kêu tên ông Hoàng (cha ruột anh Anh) ra chửi và xúc phạm dòng họ Lê của anh Anh. Anh Lê Văn Vy (anh ruột của Anh) có nhà gần đó nghe chửi nên đi bộ đến hỏi: “Sao chửi cha mẹ tôi”. Nghe vậy, Bốn liền cầm một khúc gỗ tròn, dài 0,7m đường kính 7cm ra cửa. Vinh chạy theo giật khúc gỗ của vợ ra đứng đối diện Vy và đánh thẳng từ trên đầu Vy xuống. Bị đánh bất ngờ, anh Vy khom người xuống ôm đầu. Vinh tiếp tục đánh 2 cái nữa trúng ba sườn anh Vy. Khi đó, chị Ánh (vợ anh Vy) lao vào kéo chồng đưa về nhà. Tỷ lệ thương tật của anh Vy là 10%.

            Tòa án đã xét xử Vinh tội cố ý gây thương tích theo khoản 1 Điều 104, tuyên phạt Vinh 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 2 năm và bồi thường 10 triệu đồng cho anh Vy.

            Căn cứ theo bản án đã có hiệu lực pháp luật, đội thi hành án huyện Quảng Ninh ra quyết định thi hành án phần dân sự, buộc Vinh bồi thường cho anh Vy 10 triệu đồng. Đội thi hành án đã tuân thủ các thủ tục về thi hành án, tiến hành xác minh tình trạng tài sản của Vinh, Vinh nói hiện tại anh mới được cho ra riêng, chưa có tài sản riêng trong nhà, hiện tại chỉ có một số máy móc, thiết bị dùng sản xuất là của ông Huân cho mượn, nên xin hàng tháng tích luỷ để thi hành án dần dần. Tuy nhiên, sau một thời gian khá dài, Vinh vẫn không thực hiện cam kết, đội thi hành án đã mở đợt điều tra, xác minh để cưỡng chế thi hành án.

            Lần thứ nhất: 8/3/2005, đội thi hành án xác minh trong nhà Vinh có 2 con lợn, mỗi con 50kg, nên ra quyết định kê biên và giao cho Vinh tiếp tục trông nuôi, nếu có xảy ra biến động gì phải báo ngay với đội thi hành án. Sau 3 tháng, đội thi hành án tổ chức bán đấu giá thì 2 con lợn này không còn nữa. Khi hỏi, Vinh nói: 2 con lợn đã chết, đem ném xuống sông rồi.

            Lần thứ hai: theo nguồn tin từ ông Tiển, đội thi hành án xác minh Vinh đang có 2 con bò (mẹ và con), đang thuê ông Nghĩa ở xã Trường Xuân chăn dắt (theo hợp đồng). Đội thi hành án chưa kịp cưỡng chế thì Vinh đơn phương chấm dứt hợp đồng với ông Nghĩa, bán 2 con bò này với giá 5.600.000 đồng. Khi hỏi tiền đâu sao không thi hành án, Vinh nói đã chi tiêu cho gia đình trong việc đầu tư sản xuất hết rồi.

            Lần thứ ba: cùng thời gian trên, đội thi hành án xác minh được Vinh đang có mua 1 con trâu đực của ông Ý với giá 4.560.000 đồng. Sau đó, Vinh đem bò gửi theo đàn bò của ông Huân.  

            Ngày 2/1/2006, dưới sự chỉ đạo của Giám đốc Sở Tư pháp và trưởng phòng thi hành án, đội thi hành án đưa lực lượng đến trang trại ông Huân để cưỡng chế. Lúc này, Vĩnh (em trai Tỵ) ra xuất trình một số giấy tờ viết tay bảo rằng bò này là của ông Huân mua cho Vĩnh chứ không phải của Vinh. Theo lời khai của ông Ý, khi mua giấy viết tay để tên Vinh, nhưng sau đó họ đến yêu cầu làm lại hợp đồng với tên Vĩnh.

            Vụ việc kéo dài quá lâu, theo anh (chị), có cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự Tỵ không? Tại sao?

Tác giả: Phạm Văn Beo